Lợi ích trọn đời từ văn hóa truyền thống Trung Quốc (1): Lòng kính sợ
Học giả Đài Loan Tăng Sĩ Cường từng nhiều lần đến đại lục giảng dạy. Có một lần, đang giảng bài ông bỗng nhiên rơi lệ. Có sinh viên hỏi: "Thưa thầy, sao thầy lại khóc?".
Tăng tiên sinh trả lời: "Nguyên nhân thực sự là vì nói đến văn hóa tốt đẹp như vậy của chúng ta, mà chúng ta lại không biết trân trọng, còn nghi ngờ điều này, điều kia. Nếu chúng ta không có nền văn hóa tốt thì cũng đành, là do tổ tiên không có bản lĩnh, nhưng tổ tiên của chúng ta vĩ đại như vậy, phi thường như vậy! Tôi từng du học nước ngoài, hoàn toàn có thể thao thao bất tuyệt về những thứ phương Tây, nhưng tôi không làm vậy, vì tôi trân quý văn hóa của chúng ta. Có người sinh ra ở trong phúc mà không biết hưởng phúc, nghĩ đến điều này tôi thấy rất đau lòng."
Lời của Tăng tiên sinh khiến tôi vô cùng đồng cảm. Văn hóa truyền thống Trung Hoa, nguồn gốc xa xưa, nội hàm rộng lớn và sâu sắc, là nguồn sống vô tận của chúng ta. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh một lý niệm quan trọng trong văn hóa truyền thống Trung Quốc: Lòng kính sợ.
Kính sợ thần Phật
Từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến ngày nay, tổ tiên của dân tộc Trung Hoa đều tin vào thần, kính sợ thần. Những người tin vào thần đều tin rằng: con người là do thần tạo ra, trời đất vạn vật là do thần tạo ra, vũ trụ thiên thể cũng là do thần tạo ra. Sinh, lão, bệnh, tử của con người, thành, trụ, hoại, diệt của vũ trụ, đều vận hành theo ý chí của Thần.
Người xưa Trung Quốc thường nói "Thần thông quảng đại", "Phật pháp vô biên", ý nói thần Phật đều có trí tuệ, từ bi vô lượng; người xưa còn nói "Lời nói riêng tư giữa người phàm, trời nghe như sấm"; "Trong phòng tối làm chuyện mờ ám, mắt thần như điện", ý nói thần Phật thấu hiểu mọi suy nghĩ, lời nói, hành động của con người. Trước thần Phật tạo ra trời, đất, con người, con người vô cùng nhỏ bé. Các bậc thánh hiền thời xưa đều tin rằng: chỉ có tin vào thần, kính sợ thần, mới có thể được thần phù hộ, trời giúp đỡ.
Chu Văn Vương kính sợ thần minh, diễn dịch Kinh Dịch, giáo hóa vạn dân, đường không nhặt của rơi, đêm không cần đóng cửa, có phúc trăm con, sống gần trăm tuổi. Đường Thái Tông tôn kính Phật giáo, sùng đạo Lão, tạo nên Trị vì Trinh Quán, được tôn là Thiên Khả Hãn, lập nên sự nghiệp Thiên cổ nhất đế.
Sử gia nổi tiếng Trần Ân Các tiên sinh từng nói: "Văn hóa của dân tộc Trung Hoa, trải qua mấy nghìn năm phát triển, đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Tống." Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận kính Phật sùng đạo, đề cao văn học, hạn chế võ thuật, không giết hại sĩ phu, công lao to lớn. Thanh Khang Hi đại đế kính trời sợ thần, trí bắt Ngao Bái, dẹp yên Tam Phiên, thống nhất Đài Loan, đánh đuổi Sa Hoàng, tây chinh Mạc Bắc, văn trị võ công cái thế, đặt nền móng cho Thịnh thế Khang Càn.
Trong lịch sử, không ít bài học về những người không kính sợ thần Phật, dẫn đến thân bại danh liệt, nhà tan cửa nát, nước mất. Trụ Vương nhà Thương không kính thần minh, hoang dâm vô độ, ưa dùng vũ lực, tàn ác, bóc lột, chống đối lời can gián, cuối cùng bị phản bội, thân chết nước mất. Bắc Ngụy Thái Vũ Đế Thác Bạt Đảo hủy diệt Phật giáo, kết quả bị hoạn quan giết chết, năm 44 tuổi. Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung tuyên bố không sợ xuống địa ngục, tiêu diệt cả Phật giáo và Lão giáo, kết quả mắc bệnh nặng mà chết, năm 35 tuổi. Đường Vũ Tông Lý Viêm diệt Phật, cũng chết vì bệnh nặng, năm 32 tuổi.
Người có lòng kính sợ thần Phật, khi đối mặt với những việc trọng đại, đều có thể làm theo lời Lão Tử dạy: "Rất thận trọng, giống như đứng bên bờ vực sâu, giống như bước đi trên lớp băng mỏng", thì có thể giữ vững chính đạo, cuối cùng sẽ mang lại lợi ích cho nước, cho dân, cho thiên hạ. Ngược lại, kẻ nào trời không sợ, đất không sợ, chuyện gì thất đức cũng dám làm, chính là đi ngược lại đạo trời, cuối cùng sẽ hại người, hại mình, hại con cháu.
Kính sợ Trời Đất
Kinh Dịch có câu: "Đức lớn của Trời Đất là sinh." Lễ Ký viết: "Đạo của Trời Đất, rộng lớn, dày dặn, cao cả, sáng tỏ, xa xăm, trường tồn."
Sách Toản Yếu viết: "Đông Tây Nam Bắc gọi là bốn phương, góc của bốn phương gọi là tứ duy, Trời Đất bốn phương gọi là lục hợp, Trời Đất gọi là nhị nghi, lấy con người thêm vào gọi là tam tài, bốn phương trên dưới gọi là vũ trụ, quá khứ vị lai gọi là thời gian, hoặc gọi Trời Đất là vũ trụ. Phàm là những gì nguyên khí của Trời Đất sinh ra."
Tổng hợp quan niệm của người xưa về Trời Đất: Trời là Càn, Đất là Khôn; phàm là Trời Đất, đều do nguyên khí sinh ra; đạo của Trời Đất, rộng lớn, nhân hậu, cao khiết, giản minh, xa xăm, trường tồn. Muôn vật Trời Đất có ơn dưỡng dục đối với con người. Không có ánh sáng mặt trời, không khí và nước, con người khó mà sống trên đời. Vì vậy, con người nên xuất phát từ nội tâm, đối với muôn vật Trời Đất, nuôi dưỡng lòng kính sợ và biết ơn.
Giữa con người và thiên nhiên cũng tồn tại quan hệ nhân quả, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Con người kính sợ Trời Đất, đối xử tốt với thiên nhiên, sẽ được Trời che Đất chở, được thiên nhiên ưu ái và ban tặng; ngược lại, sẽ bị trừng phạt bằng thiên tai nhân họa.
Vì vậy, Nho gia Trung Quốc chủ trương Thiên nhân hợp nhất, Đạo gia chủ trương tuân theo quy luật tự nhiên, thuận theo tự nhiên, hài hòa với tự nhiên, đạt đến cảnh giới "Trời Đất cùng ta chung sống, mà muôn vật cùng ta là một". Nhà Nho lớn đời Minh, Vương Dương Minh cho rằng, con người không chỉ đối với cái chết của chim muông, sự gãy đổ của cây cỏ mà có lòng thương xót, đối với sự hư hỏng của ngói đá cũng phải có tình cảm tiếc nuối. Có được tấm lòng đối xử tốt với vạn vật như vậy, vạn vật sẽ mỉm cười gần gũi bạn, giúp đỡ bạn, che chở bạn.
Người định thắng Trời là một tà thuyết, con người vĩnh viễn không thể thắng Trời. Chiến đấu với Trời Đất cũng là một tà thuyết. Trước Trời Đất, con người vĩnh viễn phải giữ thái độ khiêm tốn.
Kính sợ đạo đức
Trong cuốn Đạo Đức Kinh của triết gia nổi tiếng Trung Quốc cổ đại Lão Tử, có nhắc đến hai chữ: Đạo và Đức. Đạo là gì? Đạo là quy luật khách quan của sự sinh ra, phát triển, biến hóa và diệt vong của vạn vật trong vũ trụ. Đức là gì? Đức là tiêu chuẩn để làm người và làm việc theo quy luật khách quan của vạn vật trong vũ trụ.
Học thuyết của Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo, nói cho cùng là dạy con người cách làm người có đạo đức, có thể tóm gọn trong năm chữ: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Mạnh Tử nói: "Không có lòng trắc ẩn, không phải là người; không có lòng hổ thẹn, không phải là người; không biết nhường nhịn, không phải là người; không phân biệt được đúng sai, không phải là người."
Có nghĩa là, đối với những đau khổ mà không có lòng thương xót, thì không phải là người; đối với cái ác mà không có lòng hổ thẹn, thì không phải là người; không biết từ chối và khiêm nhường, thì không phải là người; không thể phân biệt đúng sai, thì không phải là người. 4 tâm này là đạo đức mà con người phải có.
Lời nói và hành động của con người phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức, chính là người tốt, sẽ có phúc báo, sẽ tạo ra một loạt trạng thái sống tốt đẹp như giàu sang, trí tuệ, sức khỏe, hạnh phúc, được khẳng định và khen ngợi; người đi ngược lại tiêu chuẩn đạo đức, chính là kẻ xấu, thường bị gọi là thiếu đức, tổn đức, sẽ làm giảm phúc phần, bị lên án và trừng phạt.
Đại sư Quốc học Tiền Mục giảng: "Phải biết rằng học vấn và đức hạnh thực sự là một, trình độ học vấn nhất định phải lấy tu dưỡng đức hạnh làm nền tảng, cũng lấy tu dưỡng đức hạnh làm giới hạn, nếu lơ là đức hạnh, thì học vấn cuối cùng khó mà đi sâu."
Đức hạnh của một người luôn được đặt lên hàng đầu. Không có đức, không thể có tài năng thực sự. Một người chỉ có không ngừng tăng cường tu dưỡng về phẩm đức, cho dù ở trong môi trường phức tạp đến đâu, cũng sẽ không lạc lối, đồng thời không ngừng tiến bộ về học vấn. Chỉ cần dạy lòng mình không có điều ác, thì có thể đứng vững giữa bầy hổ sói. Có đại đức đồng hành, ắt có đại tài đi theo. Không coi trọng đức, học được một chút ít kiến thức nông cạn, liền tự cao tự đại, tự mãn, ích kỷ, cuối cùng có thể "thông minh bị thông minh lừa", một bước sa chân hối hận cả đời!
Ở Trung Quốc đại lục, hiện tượng cân thiếu khi mua bán thường xuyên xảy ra, nhưng ở Đài Loan thì ít hơn. Đài Loan vẫn sử dụng loại cân cũ, gồm Bắc Đẩu thất tinh, Nam Đẩu lục tinh, cộng thêm ba sao Phúc, Lộc, Thọ tạo thành mười sáu sao cân. Tại sao cuối cùng lại là sao Phúc, sao Lộc, sao Thọ? Đây là lời cảnh báo những người buôn bán phải kính sợ đạo đức, nghiêm túc tuân thủ quy tắc. Nếu không, thiếu một lạng, mất phúc; thiếu hai lạng, mất lộc; thiếu ba lạng, giảm thọ. Phúc, Lộc, Thọ đều không còn, người ta sống để làm gì?
Người xưa Trung Quốc tạo ra chữ và từ đều có hàm ý sâu sắc. Công đức, công đức, không có đức, lấy đâu ra công? Uy đức, uy đức, không có đức, lấy đâu ra uy? Đức cao, mới có thể vọng trọng; đức cao, mới có thể có pháp độ; đức cao, mới có thể tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Đức không còn, khác gì cầm thú?
Kính sợ tổ tiên
“Nhân sự hữu đại tạ, vãng lai thành cổ kim”. Quá khứ, hiện tại, tương lai là một thể hữu cơ. Dân tộc Trung Hoa là dân tộc duy nhất trên thế giới có lịch sử 5000 năm liên tục không bị gián đoạn. Kính sợ tổ tiên cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa chúng ta.
Tết Nguyên Đán, Tết Thanh Minh, Tết Trùng Dương, Tết Trung Nguyên là bốn ngày lễ lớn trong các ngày lễ truyền thống của Trung Quốc để tế tổ. Mục đích là để nhắc nhở hậu nhân rằng, tổ tiên là nguồn gốc của con người, làm người không được quên tổ tiên, biết gốc biết nguồn, mới có thể sinh sôi nảy nở không ngừng. Thượng Thư Thuấn Điển ghi chép: “Nguyệt chính nguyên nhật, Thuấn cách vu Văn Tổ.” Vua Thuấn vào ngày mùng một phải đến tông miếu tế bái tổ tiên. Nhân nghĩa” và Hiếu đễ là cốt lõi đạo đức truyền thống của dân tộc Trung Hoa, trong sự tế lễ và tưởng nhớ, ấp ủ lòng biết ơn và ý thức trách nhiệm của hậu nhân. Luận Ngữ Học Nhi ghi chép: “Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hĩ.”
Thánh nhân trong lòng Khổng Tử có Nghiêu, Thuấn, Vũ, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, Chu Công, v.v. Luận Ngữ kể lại Khổng Tử ca ngợi vua Nghiêu rằng: “Đại tai Nghiêu chi vi quân dã! Ngôi ngôi hồ, duy thiên vi đại, duy Nghiêu tắc chi. Đãng đãng hồ, dân vô năng danh yên. Ngôi ngôi hồ, kỳ hữu thành công dã, hoán hồ, kỳ hữu văn chương!” Nghĩa là: Vĩ đại thay! Vị vua như vua Nghiêu. Cao cả thay! Chỉ có trời là tối cao, chỉ có vua Nghiêu mới noi theo được sự cao cả của trời. Ân đức của ông bao la thay, người dân thật không biết dùng ngôn từ nào để ca ngợi ông! Cao cả thay, công nghiệp trị vì thiên hạ của ông! Tốt đẹp thay, những lễ nghi chế độ mà ông ban hành!
Chu Tử Loại Ngữ》của Chu Hi có câu: “Thiên bất sinh Trọng Ni (Khổng Tử), vạn cổ như trường dạ”. Nhà tư tưởng khai sáng người Pháp Voltaire cho rằng, câu “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” của Khổng Tử xứng đáng là chuẩn mực đạo đức cao nhất, nên trở thành phương châm sống của mỗi người.
Nửa cuối thế kỷ 19, Hán học hưng khởi ở Nga, người đặt nền móng chính là đoàn trưởng đoàn truyền giáo đến Bắc Kinh lúc bấy giờ, Bỉ Khâu Lâm. Sau khi nghiên cứu sâu về văn hóa Trung Quốc, ông đã thốt lên kinh ngạc: “Xem ra, Chúa Jesus cũng không cao minh hơn Khổng Tử.” Hai đại văn hào Nga đầu và cuối thế kỷ 19 đều rất yêu thích văn hóa Trung Quốc. Đầu là Pushkin, đã giới thiệu Tam Tự Kinh, cuối là Tolstoy, đã đích thân dịch Đạo Đức Kinh. Có người hỏi Tolstoy: “Nhân vật văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất thế giới là ai?” Ông nói: Khổng Tử rất lớn, Lão Tử là vĩ đại!
Đàn cổ cầm do Tiên hoàng Phục Hy sáng tạo, dựa theo hình dáng chim Phượng Hoàng mà chế tác, lấy chiều dài tượng trưng cho 365 ngày trong năm, ban đầu có năm dây, tượng trưng cho ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, sau tăng lên thành “bảy dây”. Năm 2006, nữ nhà văn Thụy Điển Lindqvist dành 15 năm tâm huyết viết nên cuốn sách Cổ Cầm, xuất bản tại Thụy Điển, giành được giải thưởng văn học cao quý nhất Thụy Điển năm đó - Giải thưởng Văn học August, tạo nên một làn sóng văn hóa Trung Quốc, một cơn sốt đàn cổ cầm ở Thụy Điển.
Tháng 4 năm 2009, phiên bản tiếng Trung của Cổ Cầm được xuất bản tại Đài Loan, liên tục 2 tháng chiếm giữ vị trí đầu bảng xếp hạng sách bán chạy. Lindqvist nói: “Tôi đã học được rất nhiều điều ở Trung Quốc, tôi rất vui khi có thể dùng cuốn sách này để báo đáp Trung Quốc.”
Một người nước ngoài, không ngại đường xa vạn dặm, từ Bắc Âu đến Trung Quốc, từ những bậc thầy đàn cổ cầm Trung Quốc như Quản Bình Hồ, v.v. học được tinh hoa quốc túy Trung Hoa mà cả đời mình khắc cốt ghi tâm, và dốc hết sức mình để truyền bá nó ra nước ngoài, với tư cách là người Trung Quốc, chúng ta có lý do gì để không kính sợ bậc tiền nhân mà quên gốc quên nguồn chứ?
Hãy sống với lòng kính sợ chân chính
Một người thật sự hiểu biết sự kính sợ, rốt cuộc là người như thế nào? Bậc thầy văn hóa Lý Thúc Đồng (cũng chính là Hoằng Nhất pháp sư sau khi xuất gia) đưa ra đáp án là: "Tâm không vọng niệm, thân không vọng động, khẩu không vọng ngôn, quân tử sở dĩ tồn thành; nội bất khi kỷ, ngoại bất khi nhân, thượng bất khi thiên, quân tử sở dĩ thận độc; vô quý phụ mẫu, vô quý huynh muội, vô quý phu thê, quân tử sở dĩ nghi gia; bất phụ quốc gia, bất phụ sinh dân, bất phụ sở học, quân tử sở dĩ dụng thế."
"Tồn thành, thận độc, nghi gia, dụng thế" của người quân tử, nhất định là người kính sợ thần phật, kính sợ trời đất, kính sợ đạo đức, kính sợ tổ tiên, cũng chính là người thật sự hiểu biết sự kính sợ. Trở thành người như vậy rất khó, nhưng người sống trên đời, trong lòng có sự hướng tới và mục tiêu như vậy, thông qua mỗi ngày từng chút từng chút nỗ lực, hướng tới mục tiêu đó mỗi ngày đều có một chút tiến bộ nhỏ, ngày tích tháng lũy, kiên trì bền bỉ, nhất định có thể trở thành một người ôn nhuận như ngọc, khiêm khiêm quân tử.
Trong lòng có sự kính sợ, đối với bản thân, có lợi cho việc tu thân dưỡng tính, kiện toàn nhân cách, tăng trưởng tài học; đối với gia đình, có lợi cho cha hiền con thảo, anh em hòa thuận, vợ chồng đồng lòng, gia hòa vạn sự hưng; đối với đất nước, có lợi cho vua tôi trên dưới đều an phận thủ thường, khắc kỷ tận chức, trên hợp thiên tâm, dưới hợp dân ý, quốc thái dân an, có lợi cho vua tâm ngay thẳng, thân ngay thẳng, tả hữu ngay thẳng, triều đình ngay thẳng, thiên hạ ngay thẳng.
Theo Secretchina
Minh Nguyệt