Thành ngữ: Một tướng bất tài, làm khổ ba quân

Thành ngữ: Một tướng bất tài, làm khổ ba quân
Người anh hùng dân tộc, vị tướng trung nghĩa Nhạc Phi, trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình đã trải qua hơn hai trăm trận chiến, toàn thắng không hề thất bại. (Ảnh: Vương Song Quang)

Cuối thời Bắc Tống, quân Kim tràn đến kinh đô Biện Kinh của nhà Tống, bắt sống hai vua Huy và Khâm. Quân Kim đánh đâu thắng đó, quân Tống gần như tan rã. Mãi cho đến khi quân của Nhạc Phi xuất hiện, quân Kim mới gặp phải đối thủ.

Cũng là quân đội nhà Tống, những người lính vốn yếu ớt trước đây, sau khi gia nhập đội quân của Nhạc Phi, đều từ cừu non biến thành mãnh hổ, đánh cho quân Kim tướng Kim phải bỏ chạy tán loạn, thốt lên rằng: "Dời non còn dễ, lay chuyển quân Nhạc gia mới khó!"

Như vậy có thể thấy, tướng giỏi không có lính yếu. Người xưa có câu: "Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó cầu". Một con sư tử dẫn dắt một đàn cừu, cả đàn cừu đều có thể biến thành sư tử; còn một đàn sư tử bị một con cừu dẫn dắt, thì đàn sư tử có thể biến thành đàn cừu.

Napoleon đã từng nói: Một con sư tử dẫn dắt một đàn cừu có thể đánh bại một con cừu dẫn dắt một đàn sư tử. Câu nói kinh điển này đã chỉ ra một cách chính xác vai trò quan trọng của người lãnh đạo đối với sự phát triển của tập thể. Người dân thường nói: "Lính kém kém một mình, tướng kém kém cả ổ". Tàu chạy nhanh hay chậm, đều nhờ đầu tàu kéo. Câu nói ngược nghĩa với điều này là: "Một tướng bất tài, làm khổ ba quân".

Câu nói “Nhất tướng vô năng, lụy tử tam quân" xuất phát từ cuốn sử biên niên Tả thị Xuân Thu, ám chỉ vị tướng bất tài Triệu Quát trong trận Trường Bình giữa nước Tần và nước Triệu. Do sự kém cỏi của mình, Triệu Quát đã khiến 40 vạn binh lính Triệu quốc bỏ mạng và làm lu mờ tiền đồ của nước Triệu. Nhìn chung lịch sử các trận chiến lớn nhỏ, không có quân lính bất tài, chỉ có tướng lĩnh bất tài.

Người làm tướng phải lấy mình làm gương cho quân sĩ

Vào đầu thời nhà Thanh, Cát Nhĩ Đan lấy cớ truy đuổi bộ tộc Khách Nhĩ Khách để xâm phạm biên giới Đại Thanh. Hoàng đế Khang Hy, vị minh quân nghìn đời, vì muốn an ủi muôn dân ở các vùng phiên thuộc phía Bắc và Tây Bắc, đã quyết định thân chinh, tự mình thống lĩnh đại quân cùng tiến với trung quân.

Trong bài 'Đình huấn', Hoàng đế Khang Hy khi hồi tưởng lại sự việc này đã nói: “Mỗi ngày trời vừa rạng sáng là đã thức dậy hành quân, mãi đến giữa trưa mới hạ trại nghỉ ngơi. Xét thấy đại quân viễn chinh, việc cung cấp lương thực là quan trọng, nên hạ lệnh cho toàn quân tướng sĩ mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Bản thân trẫm cũng mỗi ngày chỉ dùng một bữa.

Khi chưa đóng quân, trước tiên phái người đi tìm hiểu kỹ lưỡng nguồn nước uống, bãi cỏ... ở địa phương đó. Nếu gặp nơi nào thiếu nước thì cho đào giếng, khơi nguồn, tích trữ nước sạch, đảm bảo cung cấp đầy đủ cho người và ngựa. Thế rồi ở những nơi vốn không có nước, bỗng nhiên lại phun ra những dòng suối trong mát và chảy mãi không ngừng, khơi dòng dẫn nước có thể chảy xa đến mấy dặm, nhu cầu về nước của người và ngựa nhờ đó mà được cung cấp liên tục không dứt.”

Nghe tin Khang Hy Đế thân chinh thống lĩnh đại quân từ trên trời giáng xuống, Cát Nhĩ Đan kinh hãi đến thất hồn lạc phách, lập tức bỏ chạy. Chỉ một trận giao chiến, Khang Hy Đế đã đánh bại hoàn toàn quân Cát Nhĩ Đan.

Trong lời răn dạy của mình, Hoàng đế Khang Hy đã nói: "Chính vì ta có được lòng trời, xuất quân có lý do chính đáng, nên mới xuất hiện những cảnh tượng kỳ lạ như suối mới phun trào, núi sông linh thiêng. Cả mấy chục vạn binh sĩ, xe cộ, ngựa của Đại Thanh đều bình an vô sự. Chỉ trong vòng ba tháng, chúng ta đã chỉnh đốn quân đội, khải hoàn trở về."

Triệu Quát bất tài, liên lụy bốn mươi vạn quân Triệu gặp nạn

Năm 262 trước Công nguyên, Tần Chiêu Tương Vương phái đại tướng Bạch Khởi tấn công Hàn Quốc, chiếm lĩnh Dã Vương (nay là Tần Dương, Hà Nam). Việc này cắt đứt liên lạc giữa quận Thượng Đảng (trị sở nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) và kinh đô Hàn Quốc, khiến Thượng Đảng lâm vào tình thế nguy cấp. Tướng lĩnh quân Hàn ở Thượng Đảng không muốn đầu hàng nước Tần, bèn phái sứ giả mang theo bản đồ dâng Thượng Đảng cho nước Triệu. Triệu Hiếu Thành Vương (con trai của Triệu Huệ Văn Vương) phái quân đội tiếp nhận Thượng Đảng.

Hai năm sau, nước Tần lại phái Vương Hề vây hãm Thượng Đảng.

Triệu Hiếu Thành Vương nghe tin, vội vàng phái Liêm Pha chỉ huy hơn hai mươi vạn đại quân đi cứu Thượng Đảng. Khi họ đến Trường Bình (nay là phía tây bắc huyện Cao Bình, Sơn Tây), Thượng Đảng đã bị quân Tần chiếm đóng. Vương Hề còn muốn tấn công Trường Bình. Liêm Pha vội vàng giữ vững trận địa, lệnh cho binh lính xây dựng pháo đài, đào hào sâu, đối đầu với quân Tần từ xa, chuẩn bị cho kế hoạch kháng cự lâu dài.

Vương Hề nhiều lần khiêu chiến quân Triệu, Liêm Pha quyết không giao chiến. Vương Hề không nghĩ ra cách nào, đành phải phái người báo cáo với Tần Chiêu Tương Vương: "Liêm Pha là lão tướng giàu kinh nghiệm, không dễ dàng ra giao chiến. Quân ta đến đây từ xa, nếu kéo dài, e rằng lương thảo tiếp tế không kịp, phải làm sao đây?"

Tần Chiêu Tương Vương bèn hỏi kế Phạm Thư. Phạm Thư nói: "Muốn đánh bại nước Triệu, trước tiên phải khiến nước Triệu điều Liêm Pha trở về." Tần Chiêu Tương Vương nói: "Làm sao có thể làm được điều đó?" Phạm Thư nói: "Để ta nghĩ cách."

Vài ngày sau, Triệu Hiếu Thành Vương nghe thấy những lời bàn tán xung quanh, rằng: "Tần chỉ sợ Triệu Quát trẻ tuổi khỏe mạnh dẫn quân; Liêm Pha vô dụng, sắp đầu hàng rồi!". Triệu Quát mà họ nói đến là con trai của danh tướng Triệu Xá nước Triệu. Triệu Quát từ nhỏ thích học binh pháp, nói về đạo dùng binh thì đầu đầu là đạo, tự cho mình là vô địch thiên hạ, ngay cả cha mình cũng không để vào mắt.

Triệu Vương nghe theo lời bàn tán, lập tức cho gọi Triệu Quát đến, hỏi hắn có thể đánh lui quân Tần được không. Triệu Quát nói: "Nếu Tần sai Bạch Khởi đến, tôi còn phải suy nghĩ cách đối phó. Nay đến là Vương Hột, hắn chỉ là đối thủ của Liêm Pha. Nếu thay tôi vào, đánh bại hắn không thành vấn đề." Triệu Vương nghe vậy rất vui mừng, bèn phong Triệu Quát làm đại tướng, thay thế Liêm Pha.

Lận Tương Như nói với Triệu Vương: "Triệu Quát chỉ biết đọc binh thư của cha, không biết ứng biến trên chiến trường, không thể cử hắn làm đại tướng." Nhưng Triệu Vương không nghe lời khuyên can của Lận Tương Như. Mẹ của Triệu Quát cũng dâng tấu chương lên Triệu Vương, xin đừng cử con trai bà đi.

Triệu Vương cho triệu bà vào, hỏi lý do. Triệu mẫu nói: "Lúc lâm chung, cha nó dặn đi dặn lại rằng: 'Đứa trẻ Triệu Quát này xem việc dùng binh đánh trận như trò đùa, nói về binh pháp thì mắt cao hơn trời, không coi ai ra gì. Sau này Đại vương không dùng nó thì tốt, nếu dùng nó làm đại tướng, e rằng quân Triệu sẽ bị nó hại chết.' Vì vậy tôi xin Đại vương đừng để nó làm đại tướng." Triệu Vương nói: "Ta đã quyết định rồi, bà đừng lo lắng nữa."

Năm 260 trước Công nguyên, Triệu Quát dẫn 20 vạn quân đến Trường Bình, trình phù tiết cho Liêm Pha kiểm tra. Liêm Pha làm thủ tục bàn giao rồi trở về Hàm Đan. Triệu Quát thống lĩnh 40 vạn đại quân, khí thế vô cùng hùng hậu. Ông bãi bỏ toàn bộ những quy định của Liêm Pha, hạ lệnh rằng: "Nếu quân Tần đến khiêu chiến, nhất định phải đánh trả. Địch thua thì phải truy kích, không giết sạch không ngừng tay."

Bên kia, Phạm Thư nhận được tin Triệu Quát thay thế Liêm Pha, biết kế phản gián của mình đã thành công, bèn bí mật phái Bạch Khởi làm Thượng tướng quân, chỉ huy quân Tần. Bạch Khởi vừa đến Trường Bình, bố trí mai phục xong, cố ý đánh thua vài trận. Triệu Quát không biết là kế, liều mạng đuổi theo.

Bạch Khởi dụ quân Triệu vào khu vực mai phục sẵn, phái 2 vạn 5 nghìn tinh binh chặn đường lui của quân Triệu; lại phái 5 nghìn kỵ binh, đánh thẳng vào doanh trại quân Triệu, chia cắt 40 vạn quân Triệu thành hai đoạn. Lúc này Triệu Quát mới biết quân Tần lợi hại, đành phải đắp lũy cố thủ, chờ viện binh. Quân Tần lại phái quân chặn đường tiếp viện và vận lương của quân Triệu.

Quân của Triệu Quát, trong không có lương thực, ngoài không có cứu viện, cố thủ hơn 40 ngày, binh sĩ đều kêu khổ thấu trời, không còn lòng dạ chiến đấu. Triệu Quát dẫn quân muốn phá vòng vây, quân Tần vạn tiễn tề phát, bắn chết Triệu Quát. Quân Triệu nghe tin chủ tướng bị giết, cũng nhao nhao vứt vũ khí đầu hàng. 40 vạn quân Triệu, vì sự kém cỏi của chủ tướng Triệu Quát mà toàn quân bị diệt vong.

Từ đó có thể thấy, cho dù là với một quốc gia hay một doanh nghiệp, tố chất của người lãnh đạo đều vô cùng quan trọng. Tầng lớp lãnh đạo là người phát động và thúc đẩy sự vận hành bình thường của một tổ chức, gánh vác công tác lãnh đạo và quản lý mang tính quyết định thắng bại. Trình độ quản lý của họ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của tập thể, thậm chí đến sự hưng thịnh hay suy vong của một doanh nghiệp hoặc quốc gia.

Vì vậy, doanh nghiệp ưu tú cần có đội ngũ ưu tú, càng cần có người lãnh đạo ưu tú. Tướng yếu thì không có lính mạnh, tướng mạnh thì không có lính yếu. Thương trường như chiến trường, tố chất của người lãnh đạo mới là yếu tố then chốt quyết định thắng bại.

Theo The Epoch Times
Minh Nguyệt

Đọc tiếp