Thuật ngữ xử thế trên bàn trà của cổ nhân
“Trà” là một trong những nét đặc trưng của văn hóa, đồng thời nó cũng mang nhiều nội hàm phong phú. Người xưa thích đãi khách bằng trà, một tách trà tưởng chừng như đơn giản lại bao hàm rất nhiều tri thức: Châm trà, phẩm trà, thiêm trà đều được chú trọng. (Rót trà, ngửi trà và nếm trà)
Bạn nên biết ngôn ngữ trà, chia sẻ nó với những người bạn trà, học nghi thức uống trà và thưởng thức một tách trà theo truyền thống thuần túy nhất.
01. Rượu đầy kính người, Trà đầy khinh người
Hàm ý của văn hóa “rót trà phải vơi” chính là: Khi rót trà mời khách thì không nên rót đầy, chỉ nên rót vơi, bảy tám phần là được rồi. Bởi vì nước trà thường nóng, nếu rót đầy chén chẳng những có thể làm cho khách bị phỏng, khách cũng không có cách nào bưng lên để uống thoải mái cho được.
Vì rượu nguội nên tay khách sẽ không bị bỏng, nhưng trà nóng, khi rót đầy, chén sẽ rất nóng, sẽ làm bỏng tay khách, có khi chén trà bị rơi vỡ. Điều đó sẽ làm khách bối rối và mất tự nhiên
02. Kính trước sau khiêm, già trước trẻ sau
Khi bạn đến gặp ai đó và nói mời uống trà, đối phương sẽ đáp lại bằng một câu để đáp lễ một cách khiêm nhường đừng khách khí và cảm ơn bạn. Nếu là dịp có nhiều người, thật bất tiện khi phải lấy từng chiếc cốc và đặt lên bàn trước mặt mọi người.
Lần rót trà đầu tiên nên kính người lớn trước, sau đó đến người nhỏ tuổi hơn, lần thứ hai rót trà theo thứ tự.
Khi đối phương nhận trà thì nên đáp lại: Người lớn tuổi uống trà thì búng ngón giữa 2 lần xuống bàn để cảm ơn, đối với người trẻ và bạn bè đồng nghiệp thì vuốt ngón tay giữa hai lần lên mặt bàn để bày tỏ lòng biết ơn.
03. Tiền khách, hậu chủ, nhà bếp sau cùng
Khi phục vụ trà, ngoài việc xếp hạng theo thâm niên và bậc thang độ tuổi, bạn còn phải tôn trọng khách trước, sau đó là người nhà của mình.
Sau khi tất cả những người có mặt đều đã uống trà, người nhóm lò, thường được gọi là người pha trà mới được uống, nếu không sẽ bất kính với khách, gọi là lừa dối khách và vô lễ với người khác.
04. Uống trà mà nhíu mày, tỏ vẻ chán ghét
Khách uống trà không nên cau mày, đây là động tác không hài lòng với chủ nhà, khi chủ nhà thấy khách cau mày sẽ cho rằng trà của mình uống không ngon, không hợp khẩu vị.
Khách không nên tự ý cọ sát chân chén vào thành khay trà khi nâng chén uống trà.
05. Toàn bộ trà cần tráng nước sôi lần 1, lần 2 mới dùng
Khi chủ nhà pha trà, nước đầu tiên phải được rót ra và không nên uống. Bởi vì ngày xưa trà được làm bằng chân, lá trà sẽ bẩn không uống được, hơn nữa việc cho nước sôi vào để tráng trà sẽ giúp những lá trà mở ra, bề mặt lá sẽ tiếp xúc đồng đều trong nước, nhờ đó có thể giải phóng các chất bên trong lá trà, hương vị và mùi thơm của trà sẽ đặc trưng hơn, cũng như những lượt hãm trà sau đó nước trà sẽ đồng vị.
Vì vậy, trà pha lần 2 mới uống, bắt khách uống trà pha một lần là biểu hiện sự thiếu tôn trọng.
06. Khách mới dùng trà
Khi chủ và khách đang uống trà, nếu có khách mới đến giữa chừng, chủ nhà nên chào mừng và đổi trà ngay, nếu không sẽ bị coi là do khách chậm chạp nên bị đối xử thiếu tôn trọng.
Sau khi đổi trà mới, khách mới nên uống trà pha lần thứ hai trước, nhưng khách hàng mới thường trốn tránh và cho rằng đó là hành động thiếu tôn trọng người đến trước.
07. Mật lệnh đuổi khách
Luôn thết đãi mọi người bằng trà đậm, nhưng đôi khi do mối quan hệ công việc, uống trà lâu sẽ lỡ việc hoặc lời nói của khách không phải luôn có thể hiểu được đúng ý, đêm muộn sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ của khách.
Nếu chủ nhà không cố ý thay đổi ấm trà, khách phải nhận ra rằng chủ nhà đang bí mật ra lệnh cho họ rời đi và rời đi, nếu không chủ nhà sẽ khó chịu.
08. Không để nước trà màu nâu
Khi chủ nhân đợi trà, trà sẽ được chuyển từ đậm sang nhạt, và ấm trà thường sẽ được thay sau vài lần pha nước, nếu lá trà không được thay sẽ bị coi là màu nâu.
Không nên có hai màu trà, một là trà không còn màu khi khách đang dùng, nghĩa là thờ ơ với khách, không thể hiện tình thân của chủ nhà, thứ hai là vì điểm trên mà coi thường người mới đến, xử lý sự việc không nghiêm túc, hiệu quả không rõ ràng.
09. Trà tam tửu tứ đá đào nhị
Câu nói “trà tam rượu tứ đá đào nhị” cũng đã diễn giải một cách sinh động phong tục dân gian, cũng như bao quan niệm văn hóa truyền thống tao nhã, đẹp đẽ, có thể thấy được nét đặc sắc của một dân tộc.
Nhiều nơi, có thói quen bày ba chén trên bàn trà, xuất phát từ câu nói trà tam rượu tứ, đá đào nhị. Người ta luôn tin rằng trà phải ba người uống, rượu phải bốn người cùng bàn để có thể đàm tiếu, chuyện trò với nhau, nên đông người hơn.
Số “bốn” cũng là một con số rất đặc biệt trong văn hóa truyền thống: ví như vị trí được chia thành: “đông, tây nam, bắc”; mùa chia thành “xuân, hạ, thu, đông”; loài hoa miêu tả sự kiên cường trong giá lạnh thì có “ tùng, cúc, trúc mai”… “Bốn” thực sự có nghĩa là cân bằng và có đi có lại thích hợp.
Tương đối với yên tĩnh uống trà, uống rượu càng sôi nổi càng tốt, nhưng không phải là càng nhiều người càng tốt, bởi vì quá nhiều người sẽ dễ dàng dẫn đến hỗn loạn…
Tuy nhiên, nếu đi chơi thì điều tốt hơn là nên có hai người đi cùng nhau ra ngoài ngắm cảnh và vui chơi, họ có thể bàn bạc thống nhất ý kiến và thỏa mãn những điều mình thích.
Trong cuộc sống hàng ngày, việc uống hay mời bạn bè một chén trà, chén rượu như thế nào có lẽ không cần để ý nhiều lắm đến lễ tiết cũng như nghi lễ. Nhưng ở những buổi tiệc trang trọng, nếu sơ sẩy một chút, rất có thể sẽ khiến không khí trở nên mất vui, thậm chí căng thẳng khiến cả chủ và khách đều cảm thấy khó xử.
Nghi lễ “uống rượu, thưởng trà” tuy đơn giản nhưng bao hàm rất nhiều ý tứ, qua đó thể hiện sâu sắc nghệ thuật đối nhân xử thế và trí huệ của cổ nhân.
Nguồn: Aboluowang
Minh Nguyệt biên dịch