Trà đạo: Con đường trở về với sự hợp nhất Thiên - Nhân

Trà đạo: Con đường trở về với sự hợp nhất Thiên - Nhân
Trà đạo: Con đường trở về với sự hợp nhất Thiên - Nhân. (Ảnh: Public Domain)

Câu thơ : "Dung chỉ quảng hàm vô cực vũ, tâm hải tịnh thu hữu tình thiên." Tạm dịch: Rộng tựa hư không, thâu tóm càn khôn, lòng trong sạch, thu về trời đất hữu tình. Với hai chữ 'dung tâm' đã nói lên cảnh giới tinh thần của trà đạo.

Trà, một cách tài tình, đã dung hòa tinh hoa của núi sông, trời đất vào bản thân nó. Con người, một cách kỳ diệu, dung hợp vạn vật vũ trụ và thiên nhiên hài hòa làm một thể thống nhất.

Một chén trà trong, vài làn khói trà, đã hóa giải biết bao chân lý nhân sinh, cũng chỉ ra con đường quang minh dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Công nghệ có thực sự mang lại hạnh phúc?

Bạn có hạnh phúc không? Khi đối mặt với câu hỏi như vậy, có bao nhiêu người có thể thành thật nói: Tôi rất hạnh phúc. Câu trả lời thường gặp hơn là: Tôi rất buồn; Tôi rất phiền muộn; Sống thật vô nghĩa...

Không có gì lạ khi trầm cảm trở thành một vấn đề lớn của xã hội hiện nay, điều hiếm thấy trong bất kỳ triều đại nào trong lịch sử. Người ta không khỏi phải hỏi: Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao cùng với sự tiến bộ của văn minh vật chất xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hạnh phúc dường như lại ngày càng xa rời con người? Chẳng phải tất cả những nỗ lực của con người trong những lĩnh vực này đều là vì mục đích có được hạnh phúc lớn hơn sao?

Thực ra câu hỏi này cũng không khó trả lời. Hai chữ "hạnh phúc", cái tên nói lên tất cả, nghĩa là cảm nhận về tinh thần của con người, là thứ không thể nhìn thấy, không thể chạm vào được. Nói cách khác, thứ mà ai ai cũng theo đuổi này là thứ con người ta nên tìm kiếm từ bên trong. Nó tồn tại trong tâm hồn mỗi người, ai cũng có, chỉ là có người bị bụi trần thế tục vùi lấp đến mức không thể hiện ra được. Thế mà có biết bao người thậm chí còn đi ngược hướng, tìm kiếm khắp nơi bên ngoài, quá mức theo đuổi hưởng thụ vật chất, không thể nhận thức đúng đắn những điều mà khoa học hiện đại mang lại.

Khi con người dán mắt vào màn hình máy tính, lướt web với tốc độ chóng mặt; khi con người lái xe hơi, đi máy bay đến bất cứ nơi đâu họ muốn; khi con người đặt chân lên mặt trăng xa xôi... tất cả những điều này mang lại cho chúng ta sự sung túc về vật chất, nhưng những hệ lụy của nền văn minh hiện đại cũng khiến con người lo lắng, bối rối: các vấn đề xã hội phát sinh, những căn bệnh lạ xuất hiện. Lòng ích kỷ của con người và sự tham lam vô độ đối với của cải cuối cùng cũng chẳng khác nào tự sát, lối sống này còn tàn phá môi trường sinh thái của Trái đất. Nếu loài người không sớm dừng lại, nhiều sinh vật trên Trái đất có thể sẽ sớm đi đến hồi kết...

Con đường trở về - Trà Đạo

Vậy chúng ta nên làm gì? Con người rốt cuộc từ đâu đến? Lại sẽ đi về đâu? Chủ đề cổ xưa này lại một lần nữa được đặt ra trước mắt chúng ta. Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật máy móc, câu trả lời cho vấn đề này thật đơn giản: "Con người từ trong bụng mẹ đến, rồi đi về nấm mồ." Chẳng trách có nhiều người không tìm thấy mục tiêu sống lại có thái độ sống là "hôm nay có rượu hôm nay say".

Paul Barn nói: "Nếu chúng ta muốn biết mình đang đi về đâu, vậy thì chúng ta cần phải truy tìm dấu vết của mình, xem chúng ta đến từ nơi nào."

Thực ra, từ xa xưa, tổ tiên chúng ta đã chỉ ra cho chúng ta một con đường trở về nguồn cội - đó là trà đạo.

Trà đạo - Con đường tu thân xử thế

Chữ Trà (茶), Thần Nông ban đầu gọi là Tra (查), nghĩa là tìm kiếm và loại bỏ độc tố trong cơ thể. "Đạo" nghĩa là con đường. Trà đạo chính là lấy việc uống trà làm cơ hội, giữa những cám dỗ vật chất và mâu thuẫn thị phi của thế tục, vẫn có thể tìm ra con đường trở về bản ngã, từ đó loại bỏ ảo tưởng, tự do đi về giữa thực tại vật chất và bản tính tự nhiên thuần khiết, không ngừng thực hiện sự vượt bậc về cảnh giới tinh thần. "Trà đạo là con đường từ trà đến tâm, cũng là con đường từ tâm đến trà... Trà đạo vượt ra khỏi phạm vi nghệ đạo, trở thành 'con đường nhân sinh'" (Trích "Triết học Nghệ đạo" của Kurashiki Koyo, Nhật Bản).

Lật lại lịch sử, con người thời xa xưa kính trời sợ đất, không có biên giới quốc gia, không phân biệt đẳng cấp, sống cuộc sống tự do tự tại như thần tiên "ngậm sữa mà vui, vỗ bụng mà rong chơi". Về sau, chế độ tư hữu dần dần xuất hiện, rồi lại có sự phân chia quốc gia, phát triển đến hiện đại, con người càng trở nên vật chất hóa. Từ khi có cách mạng công nghiệp, loài người một mực tham lam sự tiện lợi của cuộc sống, tham lam theo đuổi sự xa hoa, tạo ra cái gọi là xã hội tiêu thụ, từ đó đe dọa nghiêm trọng đến môi trường...

Lật lại lịch sử Trái Đất, người Ấn Độ cổ đại tin vào luân hồi, cho rằng loài người đã trải qua nhiều lần luân hồi kiếp nạn mới đi đến ngày nay.

Nhà tự nhiên học người Pháp Cuvier đã đưa ra lý thuyết nổi tiếng về sự phát triển sinh vật Thuyết tai biến, cho rằng sinh vật trên Trái Đất đã trải qua bảy lần hủy diệt, mỗi lần hủy diệt lại bắt đầu lại từ đầu.

Nhà viết kịch nổi tiếng Shakespeare từng nói: "Trời đất là một sân khấu, vạn vật đều là diễn viên. Lên sân khấu rồi lại xuống sân khấu, khắc khắc không ngừng nghỉ."

Vậy thế giới của chúng ta liệu có phải một lần nữa hứng chịu những tai họa như lũ lụt, lửa lớn, cuồng phong và bóng tối? Chẳng lẽ điểm cuối cùng của sự sống, văn minh, của tất cả chỉ có thể là đi về phía mồ chôn?

Ôn cố tri tân, nhìn lại lịch sử, ta phát hiện ra rằng sự suy tàn của thế giới loài người mỗi lần đều không tách rời khỏi sự sa đọa về tinh thần của con người, bất kể nền văn minh lúc đó phát triển huy hoàng đến đâu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh đã chỉ ra một cách sâu sắc rằng cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, hoàn toàn phù hợp với đại tự nhiên, là một đại tự nhiên thu nhỏ. Sự ô nhiễm của thế giới bên ngoài cũng là sự ô nhiễm của thế giới nội tâm. Người xưa có câu: "Chí trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên" (Trung Dung), con người nếu có thể ở trạng thái trung hoà, tự nhiên sẽ trời đất có trật tự, vạn vật sinh sôi nảy nở.

Nói cách khác, để tạo ra một thế giới hòa bình, hài hòa, tốt đẹp thì không thể tách rời việc mỗi người trên Trái Đất có một tinh thần và thể chất khỏe mạnh hay không. Người xưa nói tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu thân là điểm khởi đầu, cũng là căn bản.

Hàng ngàn năm qua, thực tiễn đã chứng minh, uống trà có mối quan hệ rất lớn đến việc tu dưỡng phẩm đức của con người. Trà đạo Trung Quốc trải qua quá trình diễn biến và phát triển lâu dài, đã hòa nhập vào đời sống thường ngày của người dân, trở thành đạo dưỡng sinh, đạo tiếp người đãi vật, đạo thư giãn và đạo tu thân xử thế của người Trung Quốc, và sớm từ thời nhà Đường đã dần dần bước ra khỏi quốc môn, được truyền bá rộng rãi trên khắp thế giới, cho đến nay vẫn trường tồn và phát triển.

Tống Tử An trong Đông Khê Thí Trà Lục đã từng ca ngợi phẩm chất của trà như sau: "Tinh hoa của núi sông, khí chất hài hòa ban sơ của trời đất, đều ở trong trà này". Trà được mệnh danh là Gỗ quý phương Nam. "Từ xưa núi danh tiếng sinh ra trà ngon". Trà mọc trên núi cao, hấp thụ linh khí của trời đất, tinh hoa của nhật nguyệt, là thuốc giải độc trời ban thời Thần Nông, là vật phẩm tế lễ trong các đền thờ thần thánh, sau này lại trở thành thức uống thơm ngon trong tay quý tộc, từ thời nhà Tống đến nay đã trở thành một trong "bảy việc cần làm khi mở cửa" của người dân (củi, gạo, dầu, muối, nước tương, giấm, trà).

Trà với cách thức độc đáo của nó - thanh tân, tự nhiên, đạm nhã, u tĩnh, thoát tục, hàng ngàn năm qua không ngừng kể cho con người nghe về chân lý nhân sinh, không ngừng khai sáng và nâng cao đạo đức tình cảm của con người, loại bỏ các loại độc tố trong cơ thể con người... Trà, giống như vị tiên đắc đạo, đói ăn gió trong, khát uống sương đêm, cưỡi mây đạp gió, cưỡi rồng bay lượn, ban mưa móc cho muôn dân trăm họ.

Tục uống trà sở dĩ có thể lưu truyền mãi không suy, là không thể tách rời khỏi "Trà đạo" - nền văn hóa truyền thống Trung Quốc rộng lớn và sâu sắc uyên thâm này. Chỉ có trà mà không có đạo, thì trà cũng chỉ có tác dụng trên bề mặt vật chất của con người, giống như một người chỉ có hình mà không có hồn, không thể cấu thành một con người hoàn chỉnh.

Theo nguyên lý tự nhiên "nhất âm nhất dương chi vị đạo", tinh thần và hình thể giống như quan hệ âm dương. "Âm dương hóa dục vạn vật". Y học cổ đại cho rằng sự mất cân bằng âm dương, hư thực chính là nguyên nhân gây bệnh, dùng thuốc chữa bệnh chính là điều chỉnh âm dương, hư thực của cơ thể con người, để khôi phục lại sự cân bằng.

Vì vậy, một người chỉ chú trọng đến năm vị của trà, mà không chú trọng đến nội hàm của trà, không cảm nhận được thần vận của trà, thì không thể coi là người thực sự hiểu trà. Quá trình thưởng trà thực chất chính là quá trình hoàn thiện và nâng cao cảnh giới tinh thần của con người.

Sự trở về với văn hóa Thiên Nhân Hợp Nhất

Con người và trà cũng giống như vậy. Khoa học hiện đại đã phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc, đó là gen của con người rất giống với gen của các sinh vật khác, sự tương đồng với tinh tinh lên tới 98,7%, với chuột nhỏ đạt 97,5%. Ở cấp độ gen, con người và động vật gần như không có sự khác biệt. Nói cách khác, con người không chỉ có khía cạnh vật chất, mà còn có khía cạnh tinh thần. Một người có sức khỏe thể chất và tinh thần tốt, âm dương cân bằng, mới có thể được coi là người hiểu được ý nghĩa thực sự của hạnh phúc.

Nhìn rộng ra, xã hội cũng vậy. Điểm thiếu sót lớn nhất của sự phát triển khoa học hiện đại là chỉ chú trọng đến hưởng thụ vật chất mà không chú trọng đến việc nâng cao đạo đức, đạt được sự thỏa mãn về tinh thần, dẫn đến sự suy đồi đạo đức xã hội. Người xưa ở Trung Quốc có đời sống vật chất rất đơn giản, nhưng trí tuệ của họ lại vô cùng cao thâm. Có thể nói, văn hóa truyền thống Trung Quốc là một nền văn hóa của sự trở về.

Nếu lấy hình ảnh vòng tròn để làm ví dụ, văn hóa phương Tây là sự đối lập giữa vật chất và bản thân, sự tách biệt giữa trời và người, giống như một nửa vòng tròn đi xuống từ điểm xuất phát. Còn văn hóa Trung Quốc là sự hợp nhất giữa vật chất và bản thân, sự hòa hợp giữa trời và người, giống như nửa vòng tròn còn lại đi lên từ điểm thấp nhất để trở về điểm xuất phát. Con đường mà văn hóa phương Đông và phương Tây đi là bổ sung cho nhau, một âm một dương, cùng nhau tạo thành một vòng tròn hoàn chỉnh.

Trà đạo không chỉ là sự kế thừa của nền văn minh vật chất, là vật mang văn hóa truyền thống của đất nước, mà còn là sự kế thừa của nền văn minh tinh thần. Về mặt vật chất, trà kết hợp ấm, trà, nước, chén... thành một thể thống nhất. Về mặt tinh thần, trà đạo còn bao hàm Phật, Đạo, Thần, Người... làm một thể: Tận tính của Phật giáo, Liễu mệnh của Đạo giáo và Thuận nhân của Nho giáo. Nó có thể kết hợp nội hàm văn hóa của nhiều lĩnh vực như văn học, nghệ thuật..., là một hệ thống văn hóa tổng hợp đa tầng, đa góc độ, là một nền văn hóa dung hợp.

Con người là vật mang của muôn loài trong vũ trụ. Khoa học hiện đại đã phát hiện ra rằng một người mang trong mình tất cả thông tin của tổ tiên. "Bất kể là ai, đều mang theo ký ức của tổ tiên chúng ta kể từ khi loài người ra đời, đến với thế giới này... Trên một người ghi lại tất cả thông tin của vũ trụ, thậm chí trên một tế bào của người đó, cũng khắc họa toàn bộ vũ trụ". (Trích "Nước biết đáp án" - Nhật Bản, Masaru Emoto).

Nói cách khác, thế giới là một thể thống nhất, ý thức của con người mỗi phút mỗi giây đều ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới. Chúng ta nên hiểu rõ, mục đích sống của con người là trong xã hội này, không ngừng học tập và rèn luyện bản thân, không ngừng nâng cao đạo đức, cuối cùng đạt đến cảnh giới thuần khiết cao nhất. Cũng chính là điều mà Khổng Tử đã nói "志于道" (Chí ư đạo). Trở về với bản tính tự nhiên và không ngừng thực hiện sự vượt bậc về cảnh giới tinh thần, đó mới chính là mục đích thực sự của cuộc sống. Trà đạo, chính là tinh thần chân chính vĩnh hằng của nhân loại, tuy đã bị con người hiện đại lãng quên!

Đả thông thân tâm, đạt được hạnh phúc đích thực

Mục đích tồn tại của con người, tuyệt nhiên không chỉ là để phục vụ cho thân xác thịt này, cuối cùng khiến bản thân lạc lối trong thất tình lục dục, trở thành nô lệ của dục vọng. Có người nói: "Khoa học phương Tây hiện đại đi theo con đường nhận thức bằng cảm quan". Thực ra, chúng ta không nên phủ nhận toàn bộ bất cứ điều gì, bởi vạn vật đều có hai mặt của nó, mà phải học cách nhìn nhận một cách toàn diện và biện chứng về mặt lợi và hại của sự vật.

Ví dụ, mọi người đều nói tiền là tốt, nhưng trên thế gian này cũng có những triệu phú, người công thành danh toại nhảy lầu tự tử, bởi vì họ quá mức theo đuổi sự thỏa mãn vật dục, càng rời xa bản tính tự nhiên, nội tâm càng đau khổ. Ngược lại, tôn giáo đi theo con đường nhận thức bản tính, chỉ chú trọng sự hồi quy về tinh thần, không chú trọng, thậm chí có những tôn giáo từ bỏ tất cả những gì thuộc về vật chất hiện thực, bao gồm cả thân xác thịt, đi theo con đường hoàn toàn trái ngược. Vì vậy, từ xưa đến nay, hai điều này luôn luôn đối lập nhau.

Như đã nói ở trên, thân xác (vật chất) và tinh thần thực chất là một thể thống nhất, giống như mối quan hệ âm dương, từ bỏ bất kỳ một bên nào cũng là không hoàn thiện, không lý trí. Thân xác và hệ thống tinh thần của con người vừa đối lập vừa thống nhất, tương hỗ kết hợp, chuyển hóa. Có thể thường xuyên duy trì trạng thái cân bằng, là tiền đề để có được sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần.

Vạn sự vạn vật đều có thể phân chia theo âm dương, như Đạo gia coi phía bên trái cơ thể là dương, phía bên phải là âm; nam giới là dương, nữ giới là âm; ban ngày là dương, ban đêm là âm; mặt tích cực là dương, mặt tiêu cực là âm; thuận cảnh là dương, nghịch cảnh là âm; vui vẻ là dương, đau khổ là âm...

Người đời chỉ theo đuổi niềm vui, không muốn chịu đựng đau khổ, ý niệm này đã là dấu hiệu của sự mất cân bằng âm dương; tương tự như vậy, người tu hành nếu một lòng chỉ muốn thoát khỏi bể khổ, theo đuổi cái gọi là hạnh phúc vĩnh cửu của thiên đường, mà cố tình chỉ tìm kiếm sự đau khổ, thậm chí không tiếc từ bỏ thân xác thịt, cũng không thể thực sự đạt được mục đích, suy cho cùng cũng không khác gì với người thường chỉ cầu hạnh phúc, đây cũng thuộc về sự mất cân bằng âm dương. Vui quá hóa buồn, khổ tận cam lai, đó là quy luật vận hành của vũ trụ.

Khoa học và tôn giáo, duy vật và duy tâm, thân xác và tinh thần, cặp âm dương này vừa đối lập vừa thống nhất (đối lập là biểu hiện, thống nhất là bản chất). Cha đẻ của khoa học, Einstein, đã bước vào tôn giáo, nhiều điều mà giới khoa học hiện đại phát hiện ra cũng trùng khớp với một số đạo lý được giảng dạy trong Phật giáo và Đạo giáo. Theo cách nói của Đạo gia, cơ thể con người là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Phật giáo cũng có câu nói "nhất sa nhất thế giới" (trong một hạt cát có cả một thế giới).

Khoa học toàn ảnh hiện đại cũng cho rằng, chỉ cần kiểm tra một giọt máu của bạn, có thể biết được sự biến đổi bệnh lý ở một bộ phận nào đó của cơ thể. Lý luận cơ bản của Trung y chú trọng vào: "quan niệm chỉnh thể, hình thần hợp nhất". Khoa học hiện đại bằng các thiết bị hiện đại đã phát hiện ra người xưa của Trung Quốc nắm bắt rất rõ ràng về hệ thống kinh mạch của con người, quy luật vận hành của các vì sao, mà trước khi các thiết bị này được phát minh, những điều này đều bị coi là mê tín dị đoan và ngu muội.

Gần đây, tiến sĩ y khoa Masaru Emoto của Nhật Bản thông qua nghiên cứu về tinh thể nước đã phát hiện ra rằng, khi con người nói những lời khen ngợi với một cốc nước, tinh thể nước trở nên tinh xảo và đáng yêu; nguyền rủa nó, thì nó trở nên xấu xí và mờ nhạt, thậm chí không thể kết tinh; niệm chú mật tông cho nó, thì nó hiển thị hình ảnh Đại Nhật Như Lai.

Phát hiện này đã gây chấn động thế giới, chứng minh rằng mỗi ý niệm của chúng ta đều có thể tác động đến vạn vật xung quanh, thiện niệm có lợi cho việc cải thiện người khác, vật khác, cũng là cải thiện chính mình, ngược lại, thì hại người hại mình. Điều này chẳng phải rất giống với điều mà Phật pháp đề cao "Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh" hay sao?!

Con người hiện đại chỉ chú trọng hưởng thụ vật chất, không coi trọng sự hồi quy về tinh thần, dẫn đến các vấn đề xã hội phát sinh. Vật cực tất phản, những năm gần đây, con người dần dần ý thức được những mặt trái này, dần dần chú ý bồi dưỡng đạo đức con người, coi trọng sự hồi quy của văn hóa truyền thống.

Nhân phẩm và Trà đạo

Vạn sự vạn vật đi đến cực điểm sẽ gặp nhau, đó là điều tất yếu. Khoa học và tôn giáo, duy tâm và duy vật, thể xác và tinh thần, âm và dương, tất cả đều có thể đạt được sự hài hòa và thống nhất trong thân và tâm con người. Thân phàm phu không thông thì có bệnh; tâm không thông thì có phiền não. Quá trình tu thân dưỡng tính chính là quá trình khai thông thân tâm, đạt được hạnh phúc đích thực, cũng là quá trình lợi mình lợi người, lợi ích chúng sinh.

Nói đến tu thân dưỡng tính, lại trở về chủ đề của bài viết này. Thực ra, tổ tiên chúng ta từ rất xa xưa đã chỉ ra cho chúng ta một con đường lớn dẫn đến chân lý: Trà đạo.

Trà, là "thiên hàm chi, địa tải chi, nhân dục chi", là mỹ vị được tạo hóa bởi trời đất và con người, đã khéo léo kết hợp việc thanh lọc cơ thể, tu dưỡng tâm hồn, tham thiền ngộ đạo vào trong một chén trà thơm, và đi vào ngàn nhà, phổ biến khắp thế giới. Xưa nay, không ít người lấy việc phẩm trà để tu thân dưỡng tính, giác ngộ Phật pháp. Nhà thơ cổ đại Giảo Nhiên đã cảm nhận về việc uống trà suối Diễm như sau: "Một chén rửa sạch cơn buồn ngủ, tình đến sảng khoái khắp đất trời. Hai chén thanh lọc thần trí ta, bỗng như mưa bay rửa bụi trần. Ba chén liền đắc đạo, cần gì khổ tâm phá phiền não...".

Lư Đồng đời Đường trong bài thơ "Tẩu bút tạ Mạnh Giám nghị ký tân trà", kể lại việc uống liền bảy chén trà, từ từ phẩm ra cảm giác khác nhau sau mỗi chén: "Một chén cổ họng ướt át; hai chén phá tan nỗi cô đơn; ba chén lục lọi ruột gan, chỉ có năm ngàn quyển văn tự; bốn chén toát mồ hôi nhẹ, chuyện bất bình trong đời, đều theo lỗ chân lông mà tan biến; năm chén da thịt thanh sạch; sáu chén thông với tiên linh; bảy chén không thể uống được nữa, chỉ cảm thấy hai bên nách gió mát nhẹ nhàng sinh ra."

Thật tốt đẹp! Trên đời này còn gì hơn trà có thể khiến con người đạt đến cảnh giới thiên nhân hợp nhất, mà lại đơn giản dễ thực hiện như vậy? Tất nhiên, nói thì dễ, nhưng điều đơn giản nhất có lẽ cũng là điều khó nhất. Muốn thực sự đạt được điều này, ngoài việc uống trà đúng cách và kiên trì lâu dài, còn cần phải quán triệt việc tu thân dưỡng tính vào từng việc lớn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, không ngừng sửa đổi tư tưởng và lời nói việc làm của bản thân, để nhân phẩm và trà đạo tương đắc ích chương, ngày càng hòa làm một. Thân tâm chúng ta sẽ ngày càng thanh tịnh, trí tuệ ngày càng tăng trưởng, cuối cùng trong niềm vui thanh đạm và tĩnh lặng mà thấu triệt chân lý vũ trụ, đạt đến trường thọ cùng trời đất, cùng nhật nguyệt tỏa sáng!

Nếu đạt đến cảnh giới này, có thể nói rằng:

Người và trà hòa làm một
Ngộ được chân lý của cõi nhân sinh
Thân và tâm hòa làm một
Vô minh tan biến
Trời và đất hòa làm một
Âm dương giao hòa
Vũ trụ hòa làm một
Muôn người hoan hỷ.

Theo Secretchina
Minh Nguyệt

Đọc tiếp