Trí tuệ Trạng Hiền: ‘Khôn chi trẻ, khoẻ chi già’
Chuyện về ông trạng nhỏ tuổi Nguyễn Hiền hẳn ai cũng biết. Nguyễn Hiền quê ở Dương A, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường sau đổi là trấn Sơn Nam Hạ (nay huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi, trở thành trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ. Tương truyền, lúc đầu vào học, sư cụ mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc ngay được như người đã từng đi học rồi. Sư cụ lấy làm lạ.
Hiền vừa thông minh, vừa khéo tay. Nghe kể, năm lên 7 Hiền nặn con voi đất di chuyển được, tai phe phẩy, vòi co duỗi, đuôi đung đưa, bởi vì chân voi đặt trên mình cua, vòi voi làm bằng con đỉa, lấy bươm bướm làm tai, sâu đo làm đuôi. Có viên quan đi qua, chợt thấy đám trẻ la hét, dậm chân, múa tay bèn rẽ vào xem. Nhìn con voi bằng đất của Hiền sống động, viên quan vuốt râu gật gù khen và đọc một vế đối
Đồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo(nghĩa là: trẻ con năm sáu đứa, chẳng ai khéo như mày). Hiền ngừng chơi, làm bộ lễ phép, khoanh tay thưa: – Bẩm xin cho biết ông làm chức gì? Viên quan hợm hĩnh khoe luôn: – Thái thú, ăn lương hai ngàn hộc.
Hiền vừa ngạc nhiên xuýt xoa và xin cho đối lại vế đối vừa rồi.Viên quan khoái chí gật đầu. Hiền bèn đọc: – Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công …Viên quan cười, vẻ cảm thông: – Trẻ con chưa được học hành nên chưa biết đối. Vế đối của ta gồm 9 chữ: “Đồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo”, vậy mà người đối chỉ có 8 chữ.
Hiền vội thưa: – Bẩm, con chưa đọc hết. Viên quan khuyến khích: – Vậy đọc nốt đi! Hiền nói to: – Chữ cuối cùng là “tham”. (Quan thái thú ăn lương 2000 thạch, không ai tham bằng ông). Nói xong, Hiền chạy biến mất.
Khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (Đinh Mùi 1247) thời vua Trần Thái Tông là khoa thi Nho học đầu tiên trong lịch sử nước nhà, đặt ra danh vị tam khôi. Khoa thi đó Nguyễn Hiền, đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu 17 tuổi, bảng nhãn và Đặng Ma La 14 tuổi, thám hoa.
Vua Trần Thái Tông ngự ở sân rồng, gặp các vị tân khoa đỗ cao trong kỳ thi. Khi Hiền vào bái mạng trước sân rồng, vua thấy trạng bé loắt choắt trong bộ áo mũ quá khổ, bèn hỏi: – Trạng học với ai? Nguyễn Hiền trả lời: – Thần không phải là người sinh ra đã biết, khi có một đôi chữ không biết thì hỏi thầy chùa.
Vua thấy trạng Hiền nói năng quê kệch mà còn có vẻ kiêu căng, không được vừa lòng nên truyền phán buộc trạng trở về học lễ nghĩa thêm. Nguyễn Hiền trở về quê nuôi dưỡng mẹ, ngày ngày đọc sách. Một lần, sứ nhà Nguyên sang nước ta. Nghĩ rằng Đại Việt không có người tài, lại tỏ ra mình hiểu biết hơn người. Y đưa ra một vỏ ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó một sợi chỉ mảnh. Viên sứ nghênh ngang cho biết khi được như vậy, mới chịu vào thành.
Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử, nhưng không vị nào xâu được. Chợt nghĩ đến trạng nguyên Nguyễn Hiền, vua bèn cho triệu trạng về kinh. Sứ giả nhà vua về quê trạng, gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng. Trong đám đó có đứa trẻ khôi ngô, đồ chừng là trạng Hiền. Để thăm dò sứ giả buông một câu.
Tự (字), là chữ, cắt giằng đầu (字) , chữ tử (子) là con, con nhà ai đấy? Chữ “tự” trên như cái giằng xay, dưới là chữ “tử”. Câu hỏi mang sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới. Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu:
Vu (于) là chưng,bỏ ngang lưng (于), chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này. Chữ”vu” (于) là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang (-) ở giữa thành chữ “đinh” (丁), nghĩa là đứa, đứa nào đứa này là một vế đối rất chỉnh và rất xược.
Đáp đoạn, bỏ chạy về nhà. Khi viên quan tìm được vào nhà thì thấy Hiền đang đun bếp. Ông ta lại ra một câu đối: – Ngô văn quân tử viễn bào trù, hà tu mị táo (Tôi nghe người quân tử xa chỗ bếp núc, sao lại nịnh ông bếp). Hiền đối đáp lại: – Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh (Ta vốn ở ngôi khanh tướng nhưng nay tạm nêm canh).
Biết đích là trạng, Vị quan vui mừng tin rằng trạng Hiền sẽ giữ thể diện cho Đại Việt, mời trạng về triều để hỏi một việc quan trọng. Trạng Hiền cười lớn: – Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, nay chính vua cũng không giữ lễ. Không ai đi mời trạng nguyên về kinh lại không theo lễ.
Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi chuyện sứ Tàu đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe chỉ mỉm cười, lẳng lặng trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ khi viên quan lên ngựa, Hiền mới xui đám trẻ cùng hát: Tích tịch tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng; Bên thì lấy giấy mà bưng; Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang; Tích tịch tình tang! Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết trạng đã chỉ cách giải, hớn hở trở về kinh.
Ngay sau khi đối đáp được sứ thần Trung Hoa, Vua Trần Thái Tông ra lệnh ban mũ mão trạng nguyên và cho quân gia mang cờ quạt võng lọng về tận quê của Nguyễn Hiền mời quan trạng ra ông ra giúp nước. Về đến triều đình, sứ thần Đô Sử của nhà Nguyên vẫn còn ở lại đây. Thấy vị trạng nguyên Đại Việt còn ít tuổi, tỏ rõ sự coi thường.
Hắn ta ra vế đố: Lưỡng nhật bình đầu nhật; Tứ sơn điên đảo sơn; Nhị vương tranh nhất quốc; Tứ khẩu tung hoành gian.
Câu thứ nhất, hai mặt trời(“nhật”日bằng đầu. Câu thứ hai, bốn ngọn núi (“sơn”山) điên đảo. Câu thứ ba, hai ông vua (“vương”王) cạnh tranh nhau. Câu thứ tư, bốn cái miệng (“khẩu”口) ngang dọc. Ông trạng nhỏ tuổi ấy cầm cục than viết ra một chữ “điền” (田 ) giữa sân rồng. Thấy giải đáp đúng, sứ thần lặng lẽ rút lui. Vua và đình thần thở dài khoan khoái.
Trạng Hiền liền được vua trao cho chức Công bộ thượng thư. Và ít lâu sau triều đình phương Bắc lại gửi thông điệp với 2 chữ “Thanh thủy”. Vua chưa hiểu thông điệp muốn nói gì. Hiền giải thích ngay rằng: “Tháng 12 xuất quân”. Thời bấy giờ Bắc triều muốn cầu viện biên giới, lợi dụng các hào trưởng địa phương để dễ bề đối phó vua tôi nhà Trần. Nghe vậy, vua Trần Thái Tông bèn cử binh hùng tướng giỏi dẹp bè lũ phản trắc. Vào tháng 12, giặc Nguyên lui vì kế hoạch không thành.
Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất mùa màng thắng lợi. Năm Ất Hợi, Chiêm Thành xâm lược nước ta, nhà vua bèn giao cho trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước.
Chỉ ít lâu sau, quân giặc bại trận, Trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông chức Đệ nhất hiển quý quan.
Duệ Anh biên khảo